Bài viết được tham vấn chuyên môn bởi: Lương Y Đỗ Minh Tuấn | Nơi công tác: Nhà Thuốc Đỗ Minh Đường

Nội tiết Đỗ Minh từ lâu đã được biết đến là bài thuốc chữa bách bệnh các thể bệnh phụ nữ, đã được giới chuyên gia, người bệnh đánh giá cao và tin dùng. Nhưng đâu mới đúng là nguồn gốc ra đời của bài thuốc này, công dụng, hiệu quả ra sao. Hãy cùng chúng tôi ngược dòng thời gian về những năm 1869 tại nhà thuốc Đỗ Minh Đường ở Hà Nam để tìm hiểu rõ về gốc rễ bài thuốc, độ hiệu quả mà bài thuốc này đem lại.  Mời các bạn đón đọc!

Nhà thuốc nam Đỗ Minh Đường được biết đến là dòng dõi gia truyền 5 đời bốc thuốc chữa bệnh cứu người bằng YHCT. Nổi danh tại đất Hà Nam từ 150 năm trước, đến nay nhà thuốc ngày càng phát triển và ghi dấu ấn riêng trên bản đồ Việt tại 2 cơ sở số 37A ngõ 97 Văn Cao, phường Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội và số 179 Nguyễn Văn Thương, Phường 25, quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh về độ uy tín, tính hiệu quả và lành tính của các bài thuốc chữa bệnh.

Khởi nguồn từ tấm lòng người thầy thuốc, sự hiếu thảo của một người con trai và sự thấu hiểu, lo lắng cho vợ mà xuyên suốt gần 3 thế kỷ qua, 5 đời lương y từ cụ Đỗ Minh Tư (1852 – 1875), Đỗ Minh Non (1872 – 1975), Đỗ Minh Tôn (1911 – 1933), đến lương y Đỗ Thị Hiển (1933) và lương y Đỗ Minh Tuấn (1982) đã ngày đêm không ngừng nghỉ để phát triển, cải tiến các bài thuốc, kế nghiệp truyền thống tốt đẹp này của dòng họ.

Tính đến nay, nhà thuốc đang điều trị tích cực cho các đầu bệnh xương khớp, sinh lý nam, nội tiết nữ, mề đay, tai mũi họngphụ khoa. Nổi bật trong số đó phải kể đến bài thuốc Nội tiết Đỗ Minh, đây là phương thuốc “vàng” giúp hàng ngàn chị em phụ nữ khỏe đẹp toàn diện, gìn giữ nét xuân trọn vẹn. Để hiểu sâu hơn về bài thuốc này, mời bạn đọc hãy theo dõi ngay ký sự “Nguồn gốc ra đời bài thuốc” tại đây.

Nhà thuốc Đỗ Minh Đường cơ sở Hà Nội

Chàng thanh niên sinh ra trong thời kỳ “trọng nam khinh nữ” nhưng luôn đau đáu nỗi lo chăm sóc sức khỏe phái nữ

Giữa những năm thế kỳ XIX, chế độ phong kiến nước ta vẫn còn nặng tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Thời điểm đó, người phụ nữ như lao động chính trong gia đình, từ việc lo cho chồng cho con, đỡ đần mẹ già đến việc thức khuya dậy sớm, cơm nước, đồng ruộng. Ấy vậy mà những nét đẹp lao động đó lại không được chú trọng, quan tâm về vấn đề sức khỏe, sắc đẹp. Họ tần tảo sớm hôm, quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” đến nỗi quên mất bản thân, không màng tới sức khỏe của mình.

Hình ảnh người phụ nữ những năm thế kỷ XIX

Ngược dòng lịch sử, quay trở lại bối cảnh xã hội ấy, cố lương y Đỗ Minh Tư của dòng họ Đỗ tại Hà Nam được sinh ra và lớn lên trong thời kỳ có tư tưởng đó nhưng ngay từ sớm, chàng thanh niên trẻ đã luôn đau đáu mang trong mình một suy nghĩ khác. Bởi ngày ngày nhìn mẹ, nhìn vợ của mình tất bận “đầu tắt mặt tồi”, có ốm đau, mệt mỏi hay cảm sốt gì cũng chỉ sắc tạm vài cây thuốc trong vườn nhà để uống, anh lại cảm thấy không yên lòng.

Nghĩ lại mình bây giờ đang một thầy thuốc mà không chăm lo được sức khỏe cho những người phụ nữ trong gia đình thì còn gì là bậc trượng phu. Nói là làm, thay vì ngồi đàm đạo trà tửu với các bạn đồng trang lứa, ngoài những lúc khám chữa bệnh cho người dân trong vùng, cậu Tư lại đỡ đần, giúp đỡ mẹ và vợ lao động. Thời gian rỗi cậu lại tìm tòi, đọc các tài liệu cổ, ứng dụng các bài thuốc của tiền nhân để bào chế ra các bài thuốc hay.

Cố lương y Đỗ Minh Tư – Người sáng lập nghề y cho dòng họ Đỗ Minh

Biến cố gia đình thôi thúc cậu Tư bằng mọi giá tìm ra bài thuốc nội tiết dành riêng cho phái nữ

Cố lương y Đỗ Minh Tư là kiểu thầy thuốc “ba không” – không truyền thống gia đình hành nghề Y, không học chính quy bài bản, không theo học thầy. Với xuất thân đó, ông nghĩ mình sẽ chỉ là một thầy thuốc làng, cho đến khi biến cố gia đình ập đến, khiến chàng trai trẻ Đỗ Minh Tư ngày đêm đi khắp các địa phương lân cận, nỗ lực không ngừng để tìm ra đúng thầy, đúng sách y cổ nhằm lấy thêm tư liệu nghiên cứu bệnh và cách chữa trị.

Vị lương y “3 không” và hoàn cảnh khai sinh bài thuốc Nội Tiết Đỗ Minh

Đỉnh điểm là lần vợ ông mang bầu, ăn uống không đầy đủ, lại bị thiếu chất dẫn đến sức khỏe yếu nên bị băng huyết sau sinh, từ đấy người yếu dần, xuống sắc và cơ thể ngày càng kiệt quệ. Thương vợ, xót con nhỏ không đủ sữa để bú, ông cuống cuồng chạy dọc chạy xuôi, tìm hết thứ thuốc này đến quyển sách kia với mong muốn tìm được cách trị bệnh, phục hồi sức khỏe cho vợ.

Hồi đầu, cụ Tư “ăn nằm ở đậu” với hơn 370 vị thuốc từ cách phân loại đến công năng, chủ trị cùng cách chẩn đoán, chữa bệnh trong sách “Y học tùng thư” của An Nhân – Nguyễn Tử Sưu. Tìm hiểu sâu hơn về mối tương quan giữa Âm Dương Ngũ hành, lục phủ ngũ tạng, hư thực, hàn nhiệt, ông tìm đọc đến “Y học nhập môn”, “Vạn bệnh hồi xuân” rồi tuyển tập “Hải Thượng Lãn Ông y tông tâm lĩnh”.

Cứ thế, dần dà rồi nghề lại dạy nghề, công sức chàng thanh niên trẻ bỏ ra cũng được đền đáp xứng đáng bằng thành quả riêng mà mình đã đúc rút được. Áp dụng vào thực tế, ông chẩn bệnh cho vợ bằng cách bắt mạch, sử dụng 3 ngón tay áp vào thốn khẩu (Cổ tay) để cảm nhận trầm (chủ về bệnh ở bề trong), thiết mạch (chủ về bộ vị), kết hợp cùng quán chiếu hơi thở của vợ, cậu Tư nhận thấy mạch của vợ khá yếu và không đều, khi thì 5 – 6 lượt, hồi laai lại 7 – 8 lượt, chứng tỏ đây là sắc chủ bệnh nhiệt – nóng, bốc hỏa trong người. Sau đấy, tiếp tục đặt tay vào bộ vị thấy mạch nhỏ tăm tắp như sợi tơ (gọi là Tế chủ) về bệnh hư, mạch ngắn ngủi, phía ngoài mạch chưa đến thốn, phía trong mạch không đến xích (gọi là Đoản) – tính ra người vốn bẩm đã bị suy nhược.

Phương pháp bắt mạch chẩn bệnh theo YHCT

Xem xét sâu hơn về âm dương cơ thể, lấy lưng là dương, bụng là âm, xét về âm dương toàn thân thì ngoài là dương, trong là âm, còn xét về âm dương trong tạng phủ thì tạng là âm, phủ là dương. Cụ Tư nhận thấy, phàm người sinh ra gốc phải ở khí âm, dương. Khí âm tàng tinh mà ứng ra bên ngoài, khí dương vệ thì bề ngoài mới kiên cố. Trong sách “Y học Tùng thư” có viết:

Đến như khí dương vệ ở bề ngoài cho khí âm ở trong được kiên cố, đàn bà có thai, giáp cái thai có một lần huyết y (là 1 lần bọc ở bề ngoài bằng máu) tức là âm ở trong, ngoài huyết y có một lần thủy y (là 1 lần bọc ngoài bằng nước – nước ối) tức là dương vệ ở ngoài. Nghĩa âm dương có rõ thì mới biết được sinh hóa ở con người mà xét ra bệnh và chữa trị. Tâm hợp với mạch – Phế hợp với bì – Can hợp với cân – Tỳ hợp với nhục. Theo sự phối hợp này thì hễ mắc bệnh ở huyết mạch phải trị tâm, ví như cây mà cành lá bị khô là do ở rễ có sâu, phải trị ở rễ trước, có như vậy cành lá mới mong khỏi khô héo”.

Theo sự hiểu biết của mình, cậu Tư chẩn đây là bệnh rối loạn nội tiết bên trong cơ thể của phụ nữ, căn nguyên gây bệnh là do khí huyết ở trong tạng phủ có sự suy tổn trước nên mới sinh ra bệnh tật. Hơn nữa, vợ ông nói riêng, phụ nữ Việt Nam thời đó nói chung đa phần có cơ thể yếu, dễ nhiễm hàn dẫn đến hay bị suy tổn, âm suy, lo sầu nghĩ ngợi thương tâm (lo âu, sầu não, nghĩ ngợi thì tâm khí sẽ ức át, hỏa uất, huyết trệ) từ đấy gây ra các rối loạn âm dương ngũ hành (rối loạn nội tiết tố) và khiến thận âm suy, sức đề kháng kém, mạch bị suy yếu.

Để điều trị dứt điểm bệnh này, theo nguyên lý chữa trị của YHCT, cậu Tư đã sử dụng các cây thuốc nam kết hợp cùng công thức bí truyền mà mình nghiên cứu được tạo ra thành phẩm bài thuốc chữa bệnh nhằm tuyên đạt âm dương, lưu thông khí huyết, cải thiện sinh lý nữ, điều hòa kinh nguyệt, chống căng thẳng, mệt mỏi, cân bằng nội tiết tố, tái tạo da, nhuận sắc và nâng cao sức đề kháng cho vợ.

Biến lý thuyết sách vở thành bài thuốc thảo dược độc bản dùng cho phụ nữ

Ngày ngày tập trung chẩn bệnh là thế, nhưng cứ hễ nghe ở đâu có kỳ hoa dị thảo hay các loại cây dược liệu được người dân dùng làm thuốc chữa bệnh là cụ Tư lại gác công bỏ việc tìm đến. Với niềm đam mê mãnh liệt với các loại cây dược liệu, mà rất nhiều lần chàng thanh niên trẻ đã bôn ba khắp nơi, cóp nhặt như đứa trẻ đi tìm chữ khai phá ra rất nhiều loại cây rừng, thảo dược quý có giá trị cao và phù hợp với việc chữa các thể bệnh phụ nữ.

Ông chia sẻ: “Đi tìm cây thuốc cũng là một quá trình để nâng cao tay nghề của mình. Mọi cây cỏ, thảo dược đều có giá trị chữa bệnh riêng nên khi mình biết rõ ngọn ngành về cây cỏ và các phương thuốc truyền đời từ nhiều thế hệ cha ông, ắt sẽ có được thành quả lớn”. Cứ như vậy, từ những gì chiêm nghiệm và đúc kết được qua các bậc lão làng đi trước, cụ Tư lại rút ra cho mình nhiều triết lý về nghề “hành thiện” này hơn.

Một lần, chàng thanh niên Tư đã lặn lội tới vùng núi Tây Bắc và Nam Trung Bộ, ở đây ông tìm ra được một loại dược liệu quý, thuộc giống thân thảo lớn, cao trung bình khoảng 40 – 80 cm, lá kép, hình lông chim, cuống lá dài, bẹ lá ôm lấy thân, có vị ngọt nhưng hơn nhẫn đắng, cay và có tính ấm, mùi thơm.

Đương Quy loại cây thân thảo có tác dụng điều trị bệnh hiệu quả

Lần theo tài liệu cổ của những bậc tiền nhân, ông biết đến đây là cây Đương quy. Loại thảo dược này được biết đến với tác dụng bổ huyết, ngăn ngừa tình trạng ứ huyết, diệt khuẩn nhẹ, chữa đau bụng, co thắt cơ bắp và cân bằng nội tiết tố nữ, chăm sóc sức khỏe sắc đẹp, sinh lý và điều trị các bệnh phụ nữ.

Trước đó, cậu Tư còn nghe đến Tỏi tơi lá rộng/Náng lá rộng hay còn được biết đến với cái tên gọi mỹ miều là Trinh nữ Hoàng Cung, loại thảo dược này mọc nhiều ở các tỉnh miền Nam từ Đà Nẵng trở vào. Đây là loại cây thân thảo có vị đắng, chát, có khả năng giảm đau, giảm viêm, thanh nhiệt giải độc, hành huyết ứ tán, ức chế khối u nên khi kết hợp dược liệu này với Đương quy sẽ giúp thông kinh hoạt lạc và phục hồi các bệnh phụ nữ.

Trinh nữ hoàng cung – Vị thảo dược quý thường được dùng để trị bệnh và dưỡng nhan cho các cung tần mỹ nữ trong cung thời xưa.

Cứ thế, tìm kiếm thêm một số loại thảo dược có nhiệm vụ điều vị, dẫn thuốc như đại thục địa, hoài sơn, nhục thung dung, ngũ vị tử, kỷ tử,… anh thanh niêm hăm hở về lại Hà Nam để từng bước tách chiết, bào chế dược liệu rồi đưa vào thử nghiệm cho ra phương thuốc chữa bệnh rối loạn nội tiết, điều hòa kinh nguyệt, bồi bổ thận âm, tỳ vị nhằm cải thiện sinh lý, nhuận sắc, bổ máu, giảm căng thẳng, mệt mỏi, nâng cao sức đề kháng cho chị em phụ nữ.

Tuy nhiên trong quá trình vợ sử dụng thuốc, ông nhận thấy có nhiều vấn đề cần phải thay đổi. Bởi trong Đông y quan niệm, phụ nữ lấy huyết làm chủ, huyết gặp nhiệt thì lưu thông, gặp hàn thì ngưng trệ nhiệt quá làm huyết đi sai đường và gây ra chứng băng lậu, hàn nhiệt quá thì làm huyết ngưng trệ không thông, gây thống kinh, bế kinh, thấp nhiệt quá thường gây bệnh đới hạ,…

Cân đo đong đếm, điều chỉnh rồi gia giảm dần như thế, cuối cùng cậu Tư cũng khai sinh ra bài thuốc chữa các chứng bệnh phụ nữ, từ thân bệnh đến tâm bệnh và đặt tên là Nội tiết Đỗ Minh.

Nhưng năm tháng trôi qua, thời thế thay đổi, con người cũng đổi thay, liệu một bài thuốc từ cổ xưa có còn phù hợp với mọi cơ địa người bệnh mãi được không? Để tìm kiếm câu trả lời, mời độc giả đón đọc tiếp Thảo mộc phục mỹ: Sự liên kết vô hình từ thời xưa đến nay của bài thuốc Nội tiết Đỗ Minh (Kỳ II) tại đây.

Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!

Bài viết liên quan